Mô tả Áo giao lãnh

Đây là một loại áo rộng. Kiểu áo thời Lê vạt cả thường nhỏ hơn thân, ít khi xẻ tà hai bên hông nhưng sang thời Nguyễn luôn xẻ tà, vạt cả rộng bằng thân. Áo may dài tay, rộng tay (32–36 cm). Thân áo dài tù ngang xương ống đồng đến chấm gót chân và may bằng năm - sáu tấm vải, không phân biệt giới tính. Theo thư tịch cũ minh họa thì đàn bà mặc áo phủ ngoài, bên trong là yếm che ngực. Phía dưới bụng quấn váy, buộc bằng thắt lưng nhuộm màu, hai đầu buông thả, nếu thân phận là hoa nương hoặc quý tộc thì phủ ngoài còn 1 lớp xiêm thường thêu hoa văn. Đàn ông cũng mặc áo ra ngoài quần hay khố. Vạt bên trái được kéo chéo qua ngực và bụng rồi buộc vào dưới nách áo bên phải, phân biệt với áo cổ thìa có gút buộc nằm ngang xương mỏ ác. Hiện vật trong một số mộ cổ như ở Nhật Tân, Tây Hồ hay ở mộ Đại tư đồ Nguyễn Bá Khanh (Hưng Yên) đã phát hiện một lượng áo Tràng Vạt.

Đến thế kỷ 19 thì áo giao lĩnh không còn dùng như thường phục nữa mà chỉ sử dụng làm quan phục, tế phục. Trong dân gian thì gọi là áo thụng. Trong triều thì gọi là "phổ phục" hay "bổ phục" để các quan mặc ra bên ngoài cùng khi có đại tế hay vào chầu vua. Khi mặc áo thì đính thêm bố tử ở ngực và lưng để rõ phẩm ngạch.[4] Đại để là Thời Nguyễn, từ "trực lĩnh" cũng biến mất hẳn vì chỉ còn dùng loại trực lĩnh buộc vạt sang phía nách gọi là "giao lĩnh"

Chất liệu

Áo tràng xưa chủ yếu may từ tơ tằm: sa, gấm, đoạn... Mùa hè trời nóng thì dùng sa/the, vải thanh cát (tơ thân cây chuối để dệt như cách sản xuất tại Philippin và tỉnh Okinawa-Nhật Bản do vị trí địa lý vùng nhiệt đới). Mùa đông thì dùng gấm, đoạn.